Vietnam Water
Hãy đăng nhập hoặc đăng ký thành viên để được sử dụng diễn đàn một cách tốt nhất !
Diễn đàn Công nghệ Cấp thoát nước và Môi trường - VietnamWater

Join the forum, it's quick and easy

Vietnam Water
Hãy đăng nhập hoặc đăng ký thành viên để được sử dụng diễn đàn một cách tốt nhất !
Diễn đàn Công nghệ Cấp thoát nước và Môi trường - VietnamWater
Vietnam Water
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 


Rechercher Advanced Search

Đăng Nhập

Quên mật khẩu

Thống Kê
Hiện có 43 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 43 Khách viếng thăm

Không

[ View the whole list ]


Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 201 người, vào ngày 31/12/2010, 10:49 am

Quản lý nước thải phân tán và tiềm năng áp dụng ở Việt Nam

Go down

Quản lý nước thải phân tán và tiềm năng áp dụng ở Việt Nam Empty Quản lý nước thải phân tán và tiềm năng áp dụng ở Việt Nam

Bài gửi by Admin 9/5/2008, 10:58 pm

Quản lý nước thải phân tán và tiềm năng áp dụng ở Việt Nam Very Happy

1. Đặt vấn đề Very Happy

Hiện nay, khoảng 92% dân số đô thị nước ta được trang bị các công trình vệ sinh (WHO và UNICEF, 2006). Tỷ lệ bao phủ mạng lưới thoát nước ở các đô thị chỉ đạt khoảng 30 – 70%. Mới chỉ có 3% nước thải đô thị được xử lý. Tại các vùng nông thôn, tỷ lệ này phù hợp là 51% (CER-WASS, 2007). Còn có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng miền,... So với mục tiêu đề ra trong chiến lược Quốc gia về Cấp nước và Vệ sinh môi trường nông thôn (đến 2010, 70% và đến năm 2020, 100% số hộ nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh), chiến lược Bảo vệ môi trường Quốc gia đến 2010 và tầm nhìn đến 2020 (đến 2010, 40% các khu đô thị có trạm xử lý nước thải (XLNT) tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường), rõ ràng là không thể đạt được mục tiêu trên với cách làm như hiện nay. Một trong những trở ngại rất lớn để nâng cao mức độ bao phủ trong lĩnh vực cấp nước vệ sinh là vấn đề tài chính. Những khoản kinh phí “khổng lố” cho việc đầu tư xây dựng và vận hành các hệ thống thoát nước và XLNT tập trung đã và sẽ còn là quá xa xỉ đối với nhiều nơi trong số trên 730 đô thị lớn, nhỏ trên cả nước, chưa nói đến các vùng ven đô, nông thôn. Cần phải có một sự lựa chọn khả thi và bền vững cho hiện tại và tương lai, với những mô hình quản lý, tài chính và giải pháp công nghệ thích hợp trong từng điều kiện cụ thể ở nước ta.

2. Quản lý nước thải phân tán Very Happy

Hệ thống QLNT thường được coi là phân tán khi có công suất dưới 1000 m3/ngày, một số trường hợp riêng có thể lớn hơn. Hệ thống thoát nước và XLNT phân tán bao gồm việc thu gom, xử lý, xả hay tái sử dụng nước thải cho các hộ gia đình riêng lẻ (giải pháp tại chỗ) hoặc khu dân cư (giải pháp phân tán theo cụm). Sử dụng hệ thống QLNT phân tán có những ưu điểm chính sau:

- Chi phí đầu tư xây dựng, vận hành và bảo dưỡng thường thấp, nhờ tránh được các tuyến cống thoát nước dài, đường kính và độ sâu lớn, các trạm bơm nước thải,... Tránh được những nhược điểm của các hệ thống QLNT tập trung như kỹ thuật và thiết bị phức tạp, đường cống rò rỉ, rủi ro lớn....

- Cho phép sử dụng các giải pháp công nghệ đơn giản, chi phí thấp, tận dụng triệt để các điều kiện tự nhiên để xử lý nước thải, do phân tán được quỹ đất yêu cầu. Các công nghệ cũng như các mô hình quản lý, cơ chế tài chính áp dụng cũng rất linh hoạt cho các khu vực khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể.

- Dễ thu hoạch và thực hiện quy hoạch. Cho phép phân đợt xây dựng, đầu tư các hợp phần kỹ thuật từng bước theo khả năng tài chính. Quy mô đầu tư cũng sát với yêu cầu hơn, tránh lãng phí.

- Cho phép huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng trong quản lý hệ thống thoát nước ở tất cả các khâu của dự án: lựa chọn giải pháp, đấu nối, đóng góp tài chính, tham gia quản lý, giám sát,...

- Cho phép tái sử dụng tại chỗ nước thải sau xử lý (rửa, tưới, bổ cập nước ngầm) và chất dinh dưỡng tách được (bón cây trồng),...

Hệ thống vệ sinh phân tán thường bao gồm các nhóm công trình và thiết bị xử lý chính sau:

- Xử lý sơ bộ hay bậc một trong các công trình XLNT cơ học và sinh học kỵ khí như song chắn rác, bể tách dầu mỡ, các loại bể tự hoại hay bể tự hoại cải tiến, bể biogas.

- XLNT bậc hai và bậc ba bằng phương pháp sinh học kỵ khí kết hợp với hiếu khí trong điều kiện tự nhiên: bãi lọc ngầm trồng cây, hồ sinh học, cánh đồng tưới,... hoặc trong các công trình xử lý sinh học nhân tạo quy mô nhỏ: bể aeroten với bùn hoạt tính, kênh ôxy hoá tuần hoàn, bể aeroten làm việc theo mẻ (bể SBR), bể lọc sinh học nhỏ giọt, đĩa lọc sinh học, bể lọc sinh học dính bám với giá bể ngập nước, hoặc các bể xử lý kết hợp. Nước thải sau xử lý có thể được khử trùng bằng Clo, tia cực tím, Ozon, hoặc bằng các quá trình tự nhiên trong bãi lọc trồng cây ngập nước, hồ sinh học xử lý triệt để (maturation pond), được xả trực tiếp ra hồ nước mặt, tái sử dụng trong tưới tiêu, nuôi cá, làm nguội máy móc hoặc dùng trong sinh hoạt để dội toilet,... Các quá trình này cũng cung cấp thêm dinh dưỡng cho đất trồng, đồng thời đóng vai trò tiếp tục xử lý các chất bẩn và mầm bệnh còn lại trong nước thải.
Admin
Admin
Admin
Admin

Nam
Tổng số bài gửi : 523
Đến từ : Hà Nội
Nghề nghiệp : KSMTN-CTN
Đơn vị công tác : ---
Points : 1037
Reputation : 205
Registration date : 27/03/2008

http://ikinhdoanh.com

Về Đầu Trang Go down

Quản lý nước thải phân tán và tiềm năng áp dụng ở Việt Nam Empty Re: Quản lý nước thải phân tán và tiềm năng áp dụng ở Việt Nam

Bài gửi by Admin 9/5/2008, 10:59 pm

(tiếp)
3. Quản lý nước thải phân tán trên thế giới Very Happy

-
Quản lý nước thải phân tán ở Mỹ: Do sự phát triển mạnh của kinh tế Mỹ
kéo theo những áp lực lớn về ô nhiễm môi trường, năm 1972, Chính phủ Mỹ
đã ban hành Sắc lệnh về nước sạch (Clean Water Act), tạo hành lang cho
những đầu tư nguồn lực lớn trong QLNT. Tính đến năm 1996, khoảng 70 tỷ
USD đã được đầu tư cho lĩnh vực này, cho đến khi người ta nhận ra rằng
sẽ không bao giờ đạt được mức độ che phủ 100% về dịch vụ thoát nước và
XLNT theo phương thức tập trung. Đó cũng là lúc phương thức tiếp cận
QLNT phân tán, với các giải pháp công nghệ và mô hình quản lý, tài
chính sáng tạo có cơ hội nảy nở và phát huy. Cho đến nay, QLNT phân tán
ở Mỹ đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp, với tốc độ tăng trưởng
nhanh chóng, phục vụ cho hơn 30% dân cư Mỹ, đặc biệt là các khu dân cư
mới.

Bể tự hoại và bãi lọc ngầm là mô hình XLNT phân tán phổ
biến ở Mỹ. Nước thải từ bể tự hoại, qua hệ thống ống dẫn (thường bằng
nhựa hay ống sành) chảy vào bãi lọc ngầm, qua hệ thống phân phối gồm
các ống đục lỗ đặt trong các hào lọc rải các vật liệu xốp như sỏi, đá
dăm, xỉ than, gạch vỡ, hạt nhựa xốp nhựa,... trước khi thấm vào đất.
Bãi lọc ngầm đóng vai trò như một bể lọc sinh học, nơi các vi khuẩn
hiếu khí đóng vai trò chủ đạo để xử lý nước thải.

Một số mô hình
XLNT phân tán phổ biến ở Mỹ khác là: bể tự hoại và bể xử lý hiếu khí
với bùn hoạt tính hoặc lọc dính bám, bể tự hoại và bể lọc cát (có hoặc
không có dòng tuần hoàn), bể tự hoại với ngăn bơm và bãi lọc ngầm trên
gò nổi,...

- Quản lý nước thải phân tán ở Nhật Bản: ở Nhật Bản,
mô hình thu gom cà XLNT phân tán cũng rất phổ biến, phục vụ cho khoảng
2/3 dân số, trong đó mô hình xử lý phân tán với các bể XLNT hợp khối
Johkasou phục vụ cho khoảng 1/5 dân số Nhật Bản. Việc nghiên cứu và
phát triển công nghệ Johkasou được quan tâm đặc biệt trong những năm
gần đây, hướng tới đạt mức độ xử lý triệt để, loại bỏ được Nitơ,
Phôtpho bằng phương pháp sinh học, áp dụng công nghệ lọc màng,...

-
Quản lý nước thải phân tán ở châu Âu: XLNT phân tán rất phổ biến ở châu
Âu và đã được công nghiệp hoá. Viện KH&CN Nước Liên bang Thuỵ Sỹ
(EAWAG) đang phát triển mô hình XLNT phân tán cho hộ gia đình “không có
chất thải”, sử dụng công nghệ xử lý sinh học với màng lọc (MBR). Cụm
công trình xử lý nằm dưới tầng hầm, tiếp nhận toàn bộ nước thải của hộ
gia đình. Nước thải sau xử lý được chứa trong bể đặt ngoài nhà, dùng để
dội toilet va tưới hay thấm xuống đất. Bùn dư được làm khô bằng thiết
bị làm khô bùn đặt dưới tầng hầm, hoặc thải cùng với rác sinh hoạt
(Abegglen và nnk, 2007).

- Quản lý nước thải phân tán ở Đông Nam
Á: Phương thức tiếp cận QLNT phân tán cho các khu dân cư cũng đang ngày
càng được phổ biến ở khu vực Đông Nam Á. Tại Thái Lan, Chính phủ nước
này đang có nhiều hình thức khuyến khích áp dụng mô hình này, nhất là
khi người ta đã tổng kết rằng có tới 60% số trạm XLNT tập trung ở Thái
Lan không hoạt động hoặc không hoạt động hiệu quả.

Trên hòn đảo
du lịch Phi Phi, nơi từng bị ảnh hưởng nặng nề của thảm hoạ sóng thần
năm 2005, người ta vừa xây dựng một hệ thống XLNT phân tán rất đẹp và
hiệu quả cho các khách sạn, nhà hàng, công suất 400 m3/ngày, bao gồm
các bể tự hoại và chuỗi các bãi lọc ngầm trồng cây dòng chảy thẳng đứng
và dòng chảy nằm ngang, kết hợp với bãi lọc trồng cây ngập nước và hồ
sinh học, bố trí ngay trong khuôn viên khu nghỉ dưỡng. Nước thải sau xử
lý được tái sử dụng cho tưới vườn.

4. Một số mô hình quản lý nước thải phân tán ở Việt Nam Very Happy

- Mô hình bể tự hoại cải tiến (BASTAF) và bãi lọc ngầm trồng cây

Công
nghệ BASTAF thay thế cho bể tự hoại truyền thống, với giá thành thấp và
hiệu quả xử lý cao, ổn định đã được nghiên cứu và phát triển trong
khuôn khổ dự án hợp tác nghiên cứu ESTNV giữa Trung tâm KTMT ĐT&CN
(CEE-TIA), Trường ĐHXD và Viện KH&CN Nước Liên bang Thuỵ Sỹ
(EAWAG), do Cơ quan Hợp tác Phát triển Thuỵ Sỹ (SDC) tài trợ. Các kết
quả quan trắc thu được từ các bể BASTAF trong phòng thí nghiệm và ngoài
hiện trường, cho các loại nước thải khác nhau, cho thấy BASTAF cho phép
đạt hiệu suất xử lý cao, ổn định, ngay cả khi dao động lưu lượng và
nồng độ chất bẩn của nước thải đầu vào lớn. Hiệu suất xử lý trung bình
theo COD, BOD5 và TSS tương ứng là 75 – 90%, 70 – 85% và 75 – 95%.

Bãi
lọc trồng cây đã được biết đến trên Thế giới như một giải pháp công
nghệ XLNT trong điều kiện tự nhiên, thân thiện với môi trường, cho phép
đạt hiệu suất cao, chi phí thấp và ổn định, đồng thời góp phần làm tăng
giá trị đa dạng sinh học, cải tạo cảnh quan môi trường sinh thái của
địa phương. Sinh khối thực vật, bùn phân huỷ, nước thải sau xử lý từ
bãi lọc trồng cây còn có giá trị kinh tế. Mô hình XLNT trong bể BASTAF
và bãi lọc ngầm trồng cây 2 bậc, trồng các loại thực vật nước dễ kiếm,
phổ biến ở Việt Nam, do Trung tâm KTMT ĐT&CN (CEETIA), Trường Đại
học Xây dựng phối hợp với Trường Đại học Tổng hợp Linkoeping (Thuỵ
Điển) phát triển cho phép đạt chất lượng nước đầu ra đáp ứng tiêu chuẩn
cột A, TCVN 5945 – 2005 và mức 1, TCVN 6772 – 2000, cho phép xả ra môi
trường hay tái sử dụng lại nước thải.

Hiện nay, công nghệ BASTAF
và bãi lọc ngầm trồng cây đang được triển khai áp dụng để XLNT cho
nhiều đối tượng như một số nhà chung cư cao tầng, khu đô thị mới ở Hà
Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc, các cụm dân cư ngoại thành, các làng nghề chế
biến nông sản ở Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Tây, các cụm dân cư, trường học,
bệnh viện, chợ ở các thị trấn Chợ Mới, Chợ Rã, tỉnh Bắc Cạn, cụm dân cư
vượt lũ ở An Giang,...

- Trung tâm KTMT ĐT&CN (CEETIA),
Trường Đại học Xây dựng cũng đã nghiên cứu phát triển mô hình XLNT phân
tán với công nghệ AFSB – 100, công suất 50 – 500 m3/ngày, áp dụng cho
các khu đô thị, các toà nhà cao tầng, bệnh viện, khu du lịch, xí nghiệp
chế biến thực phẩm... Cụm công trình XLNT hợp khối AFSB bao gồm ngăn
điều hoà, ngăn xử lý kỵ khí với các giá thể vi sinh, ngăn xử lý hiếu
khí với các giá thể vi sinh, ngăn lắng – tách bùn và ngăn khử trùng.
Một phần nước thải và bùn được đưa trở lại tuần hoàn để tách Nitơ,
Phôtpho. Giá thể vi sinh VABCO trong ngăn xử lý kỵ khí và hiếu khí do
CEETIA tự chế tạo. Nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn A theo TCVN 5945
– 2005, mức 1 theo TCVN 6772 – 2000.

- Nhóm nghiên cứu QLNT phân
tán (DESA) của CEETIA cũng đã nghiên cứu chế tạo thành công công nghệ
BASTAF, kết hợp xử lý kỵ khí và xử lý hiếu khí. Hệ thống gồm 2 bể nối
tiếp được chế tạo ở quy mô công nghiệp bằng vật liệu tổng hợp Composite
cốt sợi thuỷ tinh. Chế độ làm việc của bể được điều khiển bằng tay, hay
kiểm soát tự động theo thời gian, theo mực nước,... bằng bộ điều khiển
PLC. Dòng tuần hoàn nước thải sau bể hiếu khí về bể kỵ khí cho phép
loại bỏ cả các chất dinh dưỡng kho xử lý như Nitơ, Phôtpho. Hiệu suất
xử lý của hệ BASTAFAT đạt mức A, TCVN 5945 – 2005 và mức 1, TCVN 6772 –
2000, cho phép xả nước thải sau xử lý ra môi trường hay tái sử dụng.
Sản phẩm có ưu điểm hoàn toàn kín, khít, không thấm, không rò rỉ, không
gây mùi và làm ô nhiễm nước, đất, có độ bền vĩnh cửu với thời gian và
chịu được tác động cơ học cao. Bể được sản xuất sẵn ở quy mô công
nghiệp, lắp đặt đơn giản, thuận tiện, rút ngắn tiến độ thi công công
trình và giá thành hợp lý.

5. Kết luận Very Happy

-
Đã có rất nhiều công nghệ và thiết bị, các mô hình QLNT phân tán được
phát triển và ứng dụng ở quy mô lớn tại nhiều nước trên Thế giới, trong
khi phương thức này đã được chính thức ghi nhận.

- Bên cạnh các
giải pháp công nghệ cao, với các thiết bị kỹ thuật hiện đại, thích hợp
cho các đối tượng có thu nhập cao, các khu dịch vụ,... thì xu hướng áp
dụng các công nghệ chi phí thấp, tận dụng các quá trình tự nhiên, có độ
ổn định cao, bền vững, khai thác tiềm năng sẵn có ở địa phương, điều
kiện tự nhiên thuận lợi của nước ta như sông hồ nhiều, nhiệt độ, độ ẩm
cao, cường độ bức xạ mặt trời lớn là hướng đi đúng đắn.

- QLNT
chi phí thấp và bền vững phải được coi là một phương thức tiếp cận,
không chỉ đơn thuần là một số giải pháp công nghệ. Việc khuyến khích
nghiên cứu, phát triển, đa dạng hoá các sản phẩm công nghệ và mô hình
tổ chức, quản lí, cơ chế tài chính,... được thực hiện thông qua việc
ban hành các văn bản pháp quy tương ứng, các tài liệu hướng dẫn kỹ
thuật và tiêu chuẩn, tập huấn, nâng cao năng lực chuyên môn, nhất là
cho các nguồn lực địa phương, trong đó các cơ sở đào tạo, nghiên cứu
như Trung tâm KTMT ĐT&CN (CEETIA), Trường Đại học Xây dựng và các
cơ quan khác đóng vai trò quan trọng.
Very Happy


Nguồn: TC Xây dựng, số 3/2008
Admin
Admin
Admin
Admin

Nam
Tổng số bài gửi : 523
Đến từ : Hà Nội
Nghề nghiệp : KSMTN-CTN
Đơn vị công tác : ---
Points : 1037
Reputation : 205
Registration date : 27/03/2008

http://ikinhdoanh.com

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết